Trong giai đoạn hai kinh tế đối - ngoại của Trung Quốc chịu tổn thất lớn, tốc độ phát triển chậm hẳn lại. Nhằm xoa dịu tâm trạng bất mãn của dân chúng và cải thiện hình ảnh của Đảng, Trung Quốc đã gia tăng đầu tư công cộng, sử dụng đầu tư để kích thích kinh tế phát triển, thực hiện những chính sách tài chính tích cực, tìm cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài thống qua những ưu đãi về sử dụng tài nguyên, đất đai và sức lao động rẻ.
Trong giai đoạn này, GDP của Trung Quốc, cùng với các chỉ số khác như mức đầu tư công cộng, thu nhập từ thuế, chi tiêu và thâm hụt tài chính đều tăng (trừ ngân sách dành cho các chương trình phúc lợi xã hội lại giảm nhiều).
Một
đặc trưng của giai đoạn cải cách thứ hai là song song với sự phát triển
kinh tế, bộ máy quan chức chính phủ cũng phình lên nhanh chóng. Điều này
đã buộc Trung Quốc phải cắt giảm ngân sách dành cho chính phủ, giảm
ngân sách giáo dục, chuyên trách nhiệm cung cấp ngân sách dưỡng lão và
về hưu cho các chính quyền địa phương. Ngân sách dành cho giáo dục của
Trung Quốc đã giảm dần từ mức 3,04% năm 1990 xuống còn 2,5% năm 1996, và
tăng trở lại mức 3,14% năm 2004. Chủ trương “thị trường hóa” ngành giáo
dục của Trung Quốc đã khiến chi phí giáo dục ở nước này tăng gấp 20 lần
chỉ trong vài năm, biến Trung Quốc thành một trong nhũng quốc gia có
mức chi phí giáo dục cao nhất thế giới. Chi phí giáo dục mà dân chúng
nước này phải gánh chịu tính theo mức thu nhập hiện cao hơn cả Nhật Bản
và Mỹ.
Mặc
dù Trung Quốc thực hiện những chính sách tích cực về tài chính và xây
dựng hạ tầng cơ sở, nhưng hiện, tại vẫn gặp phải một tình hình là mức
đầu tư cao nhưng hiệu quả vẫn thấp với hàng loạt món nợ khó đòi. Tính
đến tháng Sáu 2005, các khoản nợ xâu mà theo công bố chính thức của
Trung Quốc lên tới 4.404,2 tỉ nhân dân tệ (khoảng trên 550 tỉ USD). Thu
chi ngân sách hiện có vấn đề với chênh lệch thu chi lên tới 2 lần, và
phía sau nền kinh tế có vẻ toàn màu hồng của Trung Quốc hiện tồn tại một
thực tê phũ phàng được che đậy.
Theo những công bố chính thức của Trung Quốc tính từ năm 1997 đến nay
Trung Quốc đã thu hút được 530 tỉ USD vốn đầu tư của nước ngoài, tuy
nhiên trên thực tế mới chỉ có 270 tỉ USD được đưa vào sử dụng Tính đến
cuối năm 2004, lượng tiền tiết kiệm trong cà nước đạt 11.000 tỉ nhân dân
tệ, trong đó 37% là tiền của các doanh nghiệp hoặc cơ quan chính quyền
các cấp, còn tiền gửi của dẫn chúng thực tế chỉ là 7.000 tỉ nhân dân tệ.
Một báo cáo thống kê cho thấy kể từ năm 1979 đến nay, số tiền “chạy” ra
nước ngoài của Trung Quốc lên tới 300 tỉ USD, trong đó chỉ riêng năm
2004, khoảng 3000 quan chức tham nhũng của Trung Quốc bỏ trốn ra nước
ngoài mang theo số tiền lên tới 50 tỉ USD. Như vậy tiền “chạy” ra nước
ngoài nhiều hơn tiền đầu tư vào Trung Quốc.